MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2020

Phan Hiếu Đăng vào 11/01/2021 PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sau đây gọi là Luật năm 2015) với nhiều quy định mang tính đột phá, đã tách quy trình xây dựng chính sách ra khỏi quy trình soạn thảo (quy trình 02 bước) đối với một số loại văn bản quy phạm pháp luật, qua đó, tạo ra hướng đi mới đẩy nhanh việc xây dựng pháp luật. Sau 05 năm triển khai thi hành Luật, có thể khẳng định công tác xây dựng pháp luật ở nước ta đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, từ yêu cầu của thực tiễn đã đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục xử lý như: phải đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng; đảm bảo cơ chế phối hợp trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết; hình thức, thẩm quyền, thủ tục ban hành văn bản… Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên và tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tình hình mới, ngày 18 tháng 6 năm 2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi là Luật năm 2020).

Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung 68 điều của Luật năm 2015. Trong đó, đã sửa đổi, bổ sung 54 điều về nội dung (Trung ương 41 điều, địa phương 13 điều) và 14 điều về kỹ thuật (Trung ương 11 điều, địa phương 03 điều), sau đây là các điểm mới, cơ bản nhất:

1. Tiếp tục khẳng định, làm rõ và sâu sắc hơn cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất, xuyên suốt của Đảng từ Trung ương đến địa phương trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc thẩm định, thẩm tra phải bảo đảm “Sự phù hợp của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản và nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước”. Trường hợp có sự thay đổi lớn về chính sách nhưng phù hợp với tình hình thực tiễn thì cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản báo cáo, xin ý kiến, chủ trương của Đảng.

2. Điểm mới thứ 2 là Luật năm 2020 đã bổ sung, làm rõ quy định về phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật năm 2020 quy định rõ thời điểm phản biện xã hội (phải trong giai đoạn tổ chức lấy ý kiến), hình thức phản biện (bằng văn bản độc lập); văn bản được phản biện (chỉ những văn bản liên quan đến quyền và lợi ích của Nhân dân, của Mặt trận); cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc Việt Nam thực hiện việc phản biện xã hội (khoản 2, Điều 1).

3. Bổ sung 02 hình thức văn bản quy phạm pháp luật mới quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật năm 2020 đó là:

- Bên cạnh Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được quy định tại Luật năm 2015 thì theo Luật năm 2020 bổ sung Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng là một trong những văn bản quy phạm pháp luật;

- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là văn bản quy phạm pháp luật bên cạnh thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước đã được quy định tại Luật năm 2015.

Luật năm 2020 quy định rõ Tổng Kiểm toán nhà nước là một chủ thể có quyền tổng liên tịch với các ngành khác; trong khi đó Luật năm 2020 tiếp tục khẳng định không ban hành Thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.

4. Về cơ bản, Luật năm 2020 đã kế thừa toàn bộ quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định tại Điều 12 của Luật năm 2015. Tuy nhiên, Luật năm 2020 đã làm rõ hơn nữa trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng cơ quan ban hành trong các trưởng hợp:

- Để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

- Nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ có liên quan chặt chẽ với nhau để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với văn bản mới dduwowccj ban hành;

- Để thực hiện phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính đã được phê duyệt.

5. Đối với hồ sơ thẩm định dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết do Chính phủ trình ngoài các tài liệu được quy định tại Điều 58 Luật năm 2015 thì theo quy định tại Luật năm 2020, hồ sơ trình cần phải có: báo cáo về rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự án, dự thảo sau điểm b khoản 2 Điều 58 và Nghị quyết của Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết sau điểm đ khoản 2 Điều 58.

6. Điểm mới quan trọng thứ 6 là Luật năm 2020 đó là đã quy định rõ hồ sơ đề nghị xây dựng nghị định của Chính phủ đối với các loại nghị định quy định tại Điều 19 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó:

a) Đối với nghị định quy định các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các biện pháp để thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ; những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của từ hai bộ, cơ quan ngang bộ trở lên; nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ quy định tại khoản 2 Điều 19 thì không còn yêu cầu lập đề nghị xây dựng quy trình chính sách đối với các nghị định có nội dung như trên và chỉ còn 02 tài liệu là:

- Tờ trình đề nghị xây dựng nghị định, trong đó phải nêu rõ sự cần thiết ban hành nghị định; mục đích, quan điểm xây dựng nghị định; đối tượng, phạm vi điều chỉnh, nội dung chính của nghị định thời gian dự kiến đề nghị Chính phủ xem xét, thông qua; dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm việc thi hành nghị định;

- Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng các vấn đề liên quan đến đề nghị xây dựng nghị định.

b) Đối với nghị định có vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội theo quy định tại khoản 3 Điều 19 thì hồ sơ đề nghị thẩm định bao gồm:

- Tờ trình đề nghị xây dựng nghị định, trong đó phải nêu rõ sự cần thiết ban hành nghị định; mục đích, quan điểm xây dựng nghị định; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của nghị định; mục tiêu, nội dung chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định, các giải pháp để thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do của việc lựa chọn; thời gian dự kiến đề nghị Chính phủ xem xét, thông qua; dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm việc thi hành nghị định;

- Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định, trong đó phải nêu rõ vấn đề cần giải quyết; mục tiêu ban hành chính sách; các giải pháp để thực hiện chính sách; các tác động tích cực, tiêu cực của chính sách; chi phí, lợi ích của các giải pháp; so sánh chi phí, lợi ích của các giải pháp; lựa chọn giải pháp của cơ quan, tổ chức và lý do của việc lựa chọn; đánh giá tác động của thủ tục hành chính, đánh giá tác động về giới (nếu có);

- Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng các vấn đề liên quan đến đề nghị xây dựng nghị định;

- Bản tổng hợp, giải trình tiếp thu ý kiến góp ý; bản chụp ý kiến góp ý;

- Dự kiến đề cương chi tiết dự thảo nghị định;

- Tài liệu khác (nếu có).

Bên cạnh đó, tương tự như nghị định của Chính phủ thì Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tại khoản 2, khoản 3 Điều 27 cũng không phải lập báo cáo đánh giá tác động chính sách trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng nghị định, nghị quyết.

7. Nhằm nâng cao trách nhiệm, hiệu quả phối hợp của các cơ quan trong quá trình thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung 05 nội dung quy định trách nhiệm của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra; sửa đổi, bổ sung 04 điều của Luật năm 2015 (Điều 74, 75, 76 và 77) để quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan trong sự phối hợp tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.

8. Luật năm 2020 đã bổ sung 03 loại văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định tại khoản 44 Điều 1, cụ thể là:

- Ban hành ngay văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội;

- Kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn.

Đối với thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành theo quy định tại khoản 1 Điều 146 của Luật năm 2015 phải xin ý kiến của Bộ Tư pháp trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn.

9. Quy định cụ thể, hợp lý hơn về thời gian, thời hạn gửi hồ sơ, tài liệu; thời hạn đăng tải và đưa tin văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương. Đây là một trong những điểm mới cơ bản nhất của Luật năm 2020 với những quy định cụ thể sau:

- Tăng thời gian gửi hồ sơ thẩm định dự thảo nghị quyết do UBND cấp tỉnh trình từ 20 ngày lên 25 ngày; tăng thời hạn gửi báo cáo thẩm định từ 10 ngày lên 15 ngày.

- Tăng thời gian gửi hồ sơ thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện từ 10 ngày lên 20 ngày.

- Tăng thời gian gửi hồ sơ thẩm định dự thảo nghị quyết của UBND cấp huyện từ 10 ngày lên 20 ngày; tăng thời hạn gửi báo cáo thẩm định từ 05 ngày lên 15 ngày.

- Văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương phải được đăng tải toàn văn trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

- Văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương phải được đăng tải toàn văn trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.

10. Quy định mới về kỹ thuật ban hành một văn bản dùng để sửa đổi nhiều văn bản. Luật năm 2020 quy định 03 trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do một cơ quan ban hành, gồm:

- Để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

- Nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ có liên quan chặt chẽ với nhau để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với văn bản mới được ban hành;

- Để thực hiện phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính đã được phê duyệt.

11. Bổ sung trường hợp ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Luật năm 2020 quy định rõ: Để kịp thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quyết định ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản.

Luật có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2021./.

Tin khác